Kabuki là một trong 3 loại hình nghệ thuật sân khấu chính của Nhật Bản, cùng với kịch Noh và kịch rối bunraku. Kabuki ra đời vào đầu thế kỷ 17 dưới hình thức biểu diễn tạp kỹ, sau đó trở thành một loại hình kịch nghệ được ưa chuộng nhất trong thời kỳ Edo (1603-1868).
Kịch Noh – “Quốc hồn” của xứ sở Mặt trời mọc
Kịch Rối Bunraku – Nghệ thuật độc đáo của Nhật Bản
Bằng sự kết hợp giữa nghệ thuật diễn xuất, múa và âm nhạc, kabuki là môn nghệ thuật hết sức độc đáo và hiện được công nhận là một trong những loại hình kịch nghệ truyền thống vĩ đại của thế giới.
Kịch Kabuki ra đời vào đầu thế kỷ 17. Loại hình nghệ thuật này bắt đầu từ một màn trình diễn có điệu múa lạ mắt của một đồng cốt tại đền thờ Izumo Taisho, tên là Okuni. Kabuki nhanh chóng chiếm được cảm tình của khán giả, ban đầu người biểu diễn chính trong là phụ nữ, tuy nhiên do các ảnh hưởng xấu tới thuần phong mỹ tục đi kèm chính phủ đã cấm nữ giới biểu diễn. Lúc này, nữ giới tiếp tục biểu diễn vì Kabuki vẫn rất nổi tiếng và được yêu thích.
Dù vậy, các vụ ẩu đã và tệ nạn xấu vẫn tiếp tục xảy ra khiến chính quyền một lần nữa ban lệnh cấm. Cuối cùng,các kabuki nam trưởng thành (những người đã cạo phần mái tóc) bắt đầu thay thế các diễn viên nam trẻ và phải đảm bảo với chính quyền rằng trong các vở kịch không phô bày thân thể, rằng họ là những nghệ sĩ nghiêm túc và không dính líu đến mại dâm.
Vào thời gian đó, vì chính quyền cấm diễn viên nữ, tầm quan trọng của những nghệ sĩ nam đóng vai nữ, gọi là onnagata, dần dần tăng lên. Khi diễn vai nữ, nghệ sĩ Kabuki phải tuân thủ những quy tắc bắt buộc như: đầu gối hơi chùn xuống khi di chuyển, động tác đi lại nhẹ nhàng, nét mặt e ấp của nữ giới; động tác tay và cả giọng nói dịu dàng.
Diễn viên onnagata có thể khiến khán giả nghĩ họ chính là phụ nữ thật vì lối trang điểm đậm và diễn xuất của họ có thể đánh lừa nhiều người. Onnagata cũng diễn rất nhiều cảnh lãng mạn. Nam diễn viên vào vai nữ phải biết cách giấu thể hình thật của mình để trông giống nữ giới. Đặc biệt bàn tay của họ phải nhỏ nhắn và động tác của đôi tay phải uyển chuyển như phụ nữ. Họ cũng bắt chước giọng nói của phái nữ.
Ngày nay, Kabuki là một trong những nghệ thuật truyền thống đáng tự hào của Nhật Bản trên thế giới. Sự cuốn hút của Kabuki không chỉ đến từ cốt truyện của vở kịch mà còn ở sự sống động của cảnh trí sân khấu, vẻ sặc sỡ của trang phục, vũ đạo sinh động và lời thoại ý nghĩa.
Kabuki được chia thành làm hai thể loại kịch chính. Đầu tiên là Jidaimono hay còn gọi là kịch lịch sử. Các vở kịch Jidaimono thường đề cập đến các sự kiện lịch sử quan trọng trước thời Edo của Nhật Bản. Thể loại kịch thứ hai là Sewamono. Sewamono mô tả cuộc sống của thị dân và nông dân trong thời Edo. Chủ đề của Sewamono là chuyện gia đình hoặc tình cảm lãng mạn.
Bên cạnh kỹ năng diễn xuất, vũ đạo, thì hóa trang cũng là yếu tố quan trọng mà mỗi nghệ sĩ Kabuki cần phải thuần thục. Có 3 cách hóa trang điển hình để thể hiện 3 dạng nhân vật trong Kabuki: nhân vật nam trẻ đại diện cho người tốt được gọi chung là Tachiyaku, Katakiyaku đại diện cho kẻ xấu, chuyên làm điều ác và Onnagata, tức các nhân vật nữ.
Bên cạnh 3 dạng nhân vật trên, Kabuki còn có một dạng nhân vật gọi là Kumadori, tức các vai diễn tượng trưng cho các dũng tướng, anh hùng lỗi lạc. Cách hóa trang của những nhân vật này có nhiều đường viền màu đỏ trên khuôn mặt tượng trưng cho đức hạnh và sức mạnh.
Việc hóa trang là một trong những khâu quan trọng của Kabuki và được các nghệ sĩ tự thực hiện. Cách hóa trang giúp người xem nhận biết bản chất của nhân vật như tốt và xấu. Ngoài ra, trong Kabuki còn có một số kiểu hóa trang như mặt xanh thể hiện cho các linh hồn, mặt nâu hay xám thể hiện vai diễn con vật, ma quái. Những nét vẽ trên mặt diễn viên giúp thể hiện tâm trạng của nhân vật tốt hơn, đặc biệt là những cảm xúc mãnh liệt như tức giận hay đau khổ.
Một nét đặc trưng khác của Kabuki mà chúng ta không thể bỏ qua là sự thể hiện điệu bộ, tiếng Nhật gọi là Mie. Tài năng của một diễn viên Kabuki được đánh giá cao qua cách anh ta diễn đạt điệu bộ gây ấn tượng và biểu lộ được tính cách của nhân vật. Điệu bộ trên thể hiện cảm xúc mãnh liệt của nhân vật, thường được dùng để lột tả sự tức giận nhưng cố kìm nén. Những cảnh diễn Mie luôn mang lại cao trào cho vở kịch, khán giả sẽ cổ vũ bằng những tiếng vỗ tay hay hò reo khi người nghệ sĩ thực hiện thành công màn trình diễn điệu bộ.
Không thể phủ nhận rằng cuộc sống hiện đại ở Nhật Bản đã phần nào đẩy các loại hình nghệ thuật truyền thống, trong đó có kabuki, không còn được hâm mộ nồng nhiệt như trước kia. Nhưng tuy không nhiều, vẫn có những người say mê loại hình nghệ thuật này. Mỗi mùa diễn, họ đi xem tất cả các vở, ngồi trong rạp suốt 4-5 tiếng đồng hồ để ngây ngất với từng vai diễn, gặp gỡ nhau để bàn về các vở kịch, các nghệ sĩ tiếng tăm.
Xem thêm: Nghệ thuật trà đạo Nhật Bản
Xem các đơn hàng khác
TTS – Caddie kéo gậy Gôn (không phí)
Tuyển dụng Quản lý dự án
Chuyên viên kinh doanh tại Nhật
Tuyển dụng chuyên viên chăm sóc khách hàng
Tuyển dụng chuyên viên cửa hàng
Tuyển dụng nhân viên Customer success